Câu hỏi:
Lăng Ông Bà Chiểu, gọi tắt là Lăng Ông ở quận Bình Thạnh, là khu lăng mộ của danh tướng nào?
Thông tin thêm: Lăng Ông rộng hơn 18.000 m2, nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu (quận Bình Thạnh) nên thường được gọi là Lăng Ông Bà Chiểu.
Nhiều người nơi khác thường nhầm rằng đây là lăng thờ ông và bà tên Chiểu, thực tế đây là lăng thờ ông bà Lê Văn Duyệt.
Lê Văn Duyệt (1763-1832) còn gọi là Tả Quân Duyệt, là một nhà chính trị, quân sự, tham gia phò tá Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với quân Tây Sơn.
Khi chiến tranh kết thúc, vương triều Nguyễn được thành lập, ông trở thành vị quan cấp cao trong triều đình và phục vụ hai vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) và Minh Mạng.
Theo các tài liệu lịch sử, sau sự biến thành Phiên An năm 1835, ông Lê Văn Duyệt bị lên án, buộc tội đã gián tiếp gây nên biến loạn.
Vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ san bằng mộ, trên dựng bia đá có khắc tám chữ "Quyền yêm Lê Văn duyệt phục pháp xử" (chỗ tên hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu tội).
Đến năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị lên ngôi cho dẹp bỏ trụ đá hài tội và đắp lại mộ. Năm đầu đời Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin phục hồi quan tước, gia ơn cho con cháu các công thần, trong đó có Lê Văn Duyệt.
Nhà vua xem sớ cảm động, truy phong cho ông và ban phẩm hàm cho con cháu họ. Sau đó, vua cho đắp lại phần mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định cao rộng thêm và cho sửa sang miếu thờ.
Toàn thể khu mộ được xây bằng một loại vữa hợp chất. Tại đây, hai ngôi mộ của ông Lê Văn Duyệt và vợ được đặt song song và có cấu tạo giống nhau.
Giải thích: Lăng Ông rộng hơn 18.000 m2, nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu (quận Bình Thạnh) nên thường được gọi là Lăng Ông Bà Chiểu.
Nhiều người nơi khác thường nhầm rằng đây là lăng thờ ông và bà tên Chiểu, thực tế đây là lăng thờ ông bà Lê Văn Duyệt.
Lê Văn Duyệt (1763-1832) còn gọi là Tả Quân Duyệt, là một nhà chính trị, quân sự, tham gia phò tá Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với quân Tây Sơn.
Khi chiến tranh kết thúc, vương triều Nguyễn được thành lập, ông trở thành vị quan cấp cao trong triều đình và phục vụ hai vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) và Minh Mạng.
Theo các tài liệu lịch sử, sau sự biến thành Phiên An năm 1835, ông Lê Văn Duyệt bị lên án, buộc tội đã gián tiếp gây nên biến loạn.
Vua Minh Mạng đã ra chỉ dụ san bằng mộ, trên dựng bia đá có khắc tám chữ "Quyền yêm Lê Văn duyệt phục pháp xử" (chỗ tên hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu tội).
Đến năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị lên ngôi cho dẹp bỏ trụ đá hài tội và đắp lại mộ. Năm đầu đời Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin phục hồi quan tước, gia ơn cho con cháu các công thần, trong đó có Lê Văn Duyệt.
Nhà vua xem sớ cảm động, truy phong cho ông và ban phẩm hàm cho con cháu họ. Sau đó, vua cho đắp lại phần mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định cao rộng thêm và cho sửa sang miếu thờ.
Toàn thể khu mộ được xây bằng một loại vữa hợp chất. Tại đây, hai ngôi mộ của ông Lê Văn Duyệt và vợ được đặt song song và có cấu tạo giống nhau.